Loading
  • Facebook
  • Youtube
Giáo xứ Hoài Lai - Giáo phận Phát Diệm
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
    • Lược sử giáo xứ
    • Linh mục phụ trách
    • Hội đồng mục vụ
  • TIN TỨC
    • Giáo hội Hoàn Vũ
    • Giáo hội Việt Nam
    • Giáo phận Phát Diệm
    • Giáo xứ Hoài Lai
  • SỐNG LỜI CHÚA
  • MỤC VỤ
    • Giới trẻ
    • Thiếu Nhi Thánh Thể
  • LỊCH PHỤNG VỤ
  • LIÊN HỆ
  • Search
  • Menu Menu

Sức mạnh từ trời cao (29/5/2026 – Lễ Chúa Thăng Thiên năm C)

30 Tháng 5, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa, Uncategorized/by Hoàng Từ
Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống.

Bài Ðọc I: Cv 1, 1-11

“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.

Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.

Ðang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9

Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang.

Xướng: 1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian.

Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang.

2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa’ hãy ca mừng, ca mừng Vua ta!

Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang.

3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người.

Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang.

Bài Ðọc II: Ep 1, 17-23

“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.

Bài trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 28, 19 và 20

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 24, 46-53

“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.

Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: ĐƯỢC ĐEM LÊN TRỜI

Suy Niệm

Lễ Chúa Thăng Thiên là một lễ trọng cho loài người.
Thân xác của Chúa Giêsu đã chết, nhưng được phục sinh.
và bắt đầu được hưởng vinh quang thiên quốc.
Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ nhiều lần
để củng cố đức tin và dạy dỗ họ (Cv 1,3).
Rồi có một ngày, Ngài nói lời chia tay lần cuối.
Từ nay Ngài sẽ không hiện ra với họ nữa.
Ngài về với thế giới của Thiên Chúa Cha.
Giờ đây Ngài mới được hưởng vinh quang trọn vẹn
khi ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.

Lễ Chúa Thăng Thiên là một lễ trọng cho loài người,
vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người,
đã vào Nước Trời với thân xác phục sinh của mình,
với toàn bộ nhân tính đã được biến đổi của mình.
Giờ đây trong thế giới của Thiên Chúa,
có sự hiện diện của một người anh em với chúng ta,
đó là Chúa Giêsu phục sinh với những dấu đinh.
Ngài là con người đầu tiên được vào Nước Trời.
Ngài là Đầu, mở cửa cho cả nhân loại đi vào Nước Cha.
Mừng kính lễ Chúa Thăng Thiên
là mừng sự thành tựu của một con người mang tên Giêsu.
Giêsu ấy có thân xác như ta, sống phận người long đong,
nhọc nhằn loan báo Tin Mừng cho người nghèo,
và cuối cùng chết thảm thiết trên thập giá.
Giêsu ấy đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh,
Ngài về với thế giới của Thiên Chúa Cha.
Giờ đây Ngài mới được hưởng vinh quang trọn vẹn
khi ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.

Lễ Chúa Thăng Thiên là một lễ trọng cho loài người,
vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người,
đã vào Nước Trời với thân xác phục sinh của mình,
với toàn bộ nhân tính đã được biến đổi của mình.
Giờ đây trong thế giới của Thiên Chúa,
có sự hiện diện của một người anh em với chúng ta,
đó là Chúa Giêsu phục sinh với những dấu đinh.
Ngài là con người đầu tiên được vào Nước Trời.
Ngài là Đầu, mở cửa cho cả nhân loại đi vào Nước Cha.
Mừng kính lễ Chúa Thăng Thiên
là mừng sự thành tựu của một con người mang tên Giêsu.
Giêsu ấy có thân xác như ta, sống phận người long đong,
nhọc nhằn loan báo Tin Mừng cho người nghèo,
và cuối cùng chết thảm thiết trên thập giá.
Giêsu ấy đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh,
và trở nên niềm hy vọng cho những ai đang vất vả ở đời.
Chúng ta tin đời mình sẽ có một kết cục tươi tắn,
sẽ có một chỗ bên cạnh Giêsu, Đấng mình đã tin và theo.

Chúa Giêsu về trời cả hồn lẫn xác,
nên lễ Chúa Thăng Thiên là lễ nhắc nhở chúng ta
về định mệnh cao quý của thân xác.
Thân xác phải được kính trọng, vì sẽ được tôn vinh với linh hồn.
Thân xác bị phân hủy, nhưng sẽ được phục sinh và sống mãi.
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.”
Đó là niềm tin của chúng ta trong Kinh Tin Kính.
Thế giới hôm nay tiến bộ mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật
nhưng thân xác lại bị coi khinh dưới muôn ngàn hình thức.
Chính khi đòi tự do, giải phóng cho thân xác,
người ta lại khiến thân xác thành nô lệ.
Những cuộc chiến xảy ra mỗi ngày, mỗi giờ trên địa cầu,
đã cướp đi biết bao mạng sống con người.
Cả những thai nhi cũng bị tước đi quyền sống.
Thân xác không còn là Đền Thờ của Thánh Thần (1 Cr 6,19).
Thân xác ô uế, không còn là chi thể của Đức Kitô (1 Cr 6,15).

Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn thành sứ mạng Cha trao.
Ngài khép lại một Giai đoạn của lịch sử cứu độ,
và mở ra một Giai đoạn mới cho Giáo Hội.
Các môn đệ phải trở nên những chứng nhân của Ngài.
Nhân danh Ngài, họ phải đi rao giảng cho mọi dân tộc,
mời gọi người ta hối cải để được ơn tha thứ (Lc 24,47).
Như thế, các môn đệ sẽ tiếp nối công việc của Thầy.
Thầy đã làm cuộc xuất hành lên Giêrusalem,
họ cũng phải làm cuộc xuất hành từ Giêrusalem
đến mọi miền trên thế giới.
Như Thầy Giêsu, họ sẽ không tránh khỏi từ bỏ mình,
chịu nhục nhã, khổ đau, và cái chết (Lc 9,23).
Điều khiến họ vững tâm là Thánh Thần:
“Thầy sẽ gửi lời hứa của Cha Thầy trên anh em” (Lc 24,49).
Như thế Thánh Thần là quà của Cha, do Chúa Giêsu gửi đến.
Chúa Giêsu khuyên các ông cứ ở lại Giêrusalem,
để chờ đợi biến cố Thánh Thần hiện xuống,
biến cố khiến họ được mặc lấy sức mạnh từ trên cao.

Mừng lễ Chúa về trời trong vinh quang,
chúng ta hiểu trần gian chỉ là trạm dừng chân.
Ta sống trên đời như khách hành hương về quê thật.
Siêu thoát với mọi hấp dẫn mê hoặc của trần thế,
bình tâm sử dụng mọi sự như phương tiện đưa ta về…
Nhưng ta quý trần gian vì phải qua đó ta mới vào Nước Trời.
Ước gì trần gian này thành hình bóng của thiên quốc.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
Con người hôm nay chênh vênh giữa trời cao và vực thẳm,
Chúa đã cho chúng con tự do để chọn
giữa thiện và ác,
giữa đồng cảm và vô cảm,
giữa chân lý và dối trá.
giữa tha thứ và hận thù,
giữa hiệp nhất và chia rẽ.


Chúa đã được giương cao khỏi mặt đất,
và Chúa hứa sẽ kéo mọi người lên.
Vậy mà chúng con hôm nay vẫn còn chênh vênh!
Cuộc đời này có bao điều hút chúng con xuống,
khiến chúng con cứ bị giằng co nghiêng ngả.


Xin giúp chúng con buông bỏ những đam mê trần tục,
để dám chọn điều Chúa đã chọn trên Thánh Giá:
chọn khó nghèo, nhục nhã, chọn tự hạ, khổ đau.


Nhờ sức mạnh cứu độ của Thánh Giá Chúa,
xin đưa chúng con ra khỏi thế đứng chênh vênh
để trọn vẹn thuộc về Chúa. (Sr. Augusta)

BÀI 2: SỨC MẠNH TỪ TRỜI CAO

Suy Niệm

Ðức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người,
nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.
Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề.
nhưng rồi Ngài đã được phục sinh và hiện ra,
được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.

Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng.
Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế.
Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc lành cho những ai là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng
đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta
đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự thành công của Ðức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy,
Chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.

Ðức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất.
Ngài muốn chúng ta ở lại và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ.
Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn.
Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng.
Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt.
Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng thế giới này
huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn,
để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời.
Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời,
thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần
để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất:
ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, đói nghèo,
và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng
nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề.
Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra,
bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực.
Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm
khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng,
và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1).
Ðừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Chúa Giêsu, Ðấng được đưa lên cao,
kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.

Gợi Ý Chia Sẻ

1) Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?

2) Ðời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

 

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

 

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

 

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

 

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn:hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/05/chua-thang-thien24465.webp 181 250 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-05-30 15:43:102025-05-30 15:43:55Sức mạnh từ trời cao (29/5/2026 – Lễ Chúa Thăng Thiên năm C)

Tôi ban sự sống đời đời cho chiên của tôi (11/5/2025 – Chúa nhật 4 Phục sinh năm C)

11 Tháng 5, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng : “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời.”

Bài Ðọc I: Cv 13, 14. 43-52

“Ðây chúng tôi quay về phía các dân ngoại”.

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.

Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: “Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất”. Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.

Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.

Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.

Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.

 

Bài Ðọc II: Kh 7, 9. 14b-17

“Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống”.

Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế.

Và một bô lão đã nói với tôi: “Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia:

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – Alleluia.

Phúc Âm: Ga 10, 27-30

“Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một”.

Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI

Suy Niệm

Chúng ta đang ở giữa mùa Phục Sinh.
Có những Kitô hữu coi sự phục sinh của Chúa Giêsu
là tột đỉnh, là hoàn tất trọn vẹn, chẳng phải chờ gì nữa.
Chúng ta hay quên một câu trong Kinh Tin Kính:
“Và Người sẽ trở lại trong vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
Bao lâu Chúa chưa trở lại, chúng ta còn phải đợi trông.
Kitô hữu vẫn sống trong một Mùa Vọng kéo dài.
Thời gian đợi trông cũng là thời gian chiến đấu,
thời gian của khách hành hương đi trong hoang địa.
Trên thập giá, Chúa phán: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30).
Chúa đã hoàn tất sau khi đã chiến đấu và chiến thắng,
còn chúng ta thì chưa!
Chúng ta chưa hoàn tất ngày nào ta còn sống trên đời.
Ta vẫn phải phấn đấu đi đường hẹp và qua cửa hẹp.
Con đường đời của người kitô hữu không hề dễ đi.
Con đường tiềm ẩn nhiều hiểm nguy thử thách.

Thầy phải qua đau khổ để vào vinh quang (x. Lc 24,26).
Đàn chiên của Mục tử Giêsu
cũng không luôn được thảnh thơi đi trên cỏ xanh,
nhưng phải đối mặt với nhiều kẻ thù hung hãn.
Kẻ thù ấy là sói, là trộm cướp, là người lạ (Ga 10,1.2.5),
đôi khi là người chăn thuê, chẳng lo cho chiên (Ga 10,13).
Những kẻ thù chỉ muốn làm đàn chiên tan tác,
sói dữ chỉ muốn vồ lấy chiên để ăn thịt.
Còn Mục Tử Giêsu thì bảo vệ đàn chiên của mình.
Ngài coi đàn chiên ấy quý hơn mạng sống,
nên Ngài làm điều mà người chăn thuê không dám làm,
đó là hy sinh mạng sống mình cho chiên (Ga 10,17.18).
Đức Giêsu đã chết cho đàn chiên.
Cái chết của Ngài không làm chiên tan tác vì mất chủ,
trái lại đã quy tụ tất cả thành một đàn chiên duy nhất.

Vì đàn chiên còn bị tấn công mãi cho đến tận thế,
nên Chúa Giêsu phục sinh vẫn phải bảo vệ đàn chiên.
Cuộc chiến giữa Ngài và các kẻ thù diễn ra ác liệt.
“Không ai cướp giựt được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28).
Rõ ràng có sự giằng co giữa đôi bên.
Một bên giữ chặt, bên kia dùng sức cướp lấy.
Nhưng quyền năng của Đấng phục sinh mạnh hơn kẻ thù.
Ngài giựt lại chiên từ miệng sói.
Sói đem lại cái chết, còn Chúa Giêsu ban sự sống đời đời.
Không phải chỉ Chúa Giêsu mới là Đấng bảo vệ chiên.
Đàn chiên của Chúa Giêsu là do Cha ban cho Ngài (Ga 10,29).
Chính vì thế Cha cũng là người bảo vệ chiên:
“Không ai cướp giựt được chúng khỏi tay Cha tôi.”
Cả Cha và Con hợp tác bảo vệ đàn chiên khỏi kẻ thù.
Chắc chắn đàn chiên sẽ được an toàn,
nhưng an toàn này được mua bằng nỗ lực của Cha và Con.
“Tôi và Cha, Chúng Tôi là một” (Ga 10,30).
Chúng Tôi cùng làm việc để gìn giữ đàn chiên.

Tuy nhiên, chiên cũng phải biết tự bảo vệ mình.
Chiên phải có khả năng nhận ra tiếng của chủ.
Chỉ khi có khả năng này, chiên mới không đi lạc,
vì chạy theo những tiếng gọi mê hoặc, đầy quyến rũ
của người lạ hay kẻ trộm kẻ cướp.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi… và theo tôi” (Ga 10,27).
Trong thời buổi hiện tại, những tà phái mọc lên như nấm.
Có bao tiếng gọi lừa bịp, thoạt nghe giống tiếng chủ chiên,
khiến những chiên ngây thơ bị mắc bẫy.
Làm sao để đàn chiên có khả năng lột mặt nạ
những sói dữ đội lốt chiên, đang làm chiên tán loạn.
Mỗi kitô hữu phải cộng tác với Thiên Chúa
để bảo vệ những chiên đang lạc lối trong nhóm của mình.

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, khi cầu nguyện
chúng con thường chỉ biết ngửa tay xin
mà quên rằng Chúa cần chúng con đưa tay cộng tác.


Chúa muốn ban ơn cho trái đất bị tàn phá,
qua tay chúng con.
Chúa muốn chữa lành cho nhân loại khổ đau,
qua tay chúng con.
Chúa không hiện ra để giúp từng người
nhưng Chúa muốn đến thăm họ
qua sự hiện diện của chúng con.
Chúa thích chúng con làm nhịp cầu
để Chúa tuôn để tình thương trên mọi loài thụ tạo.


Lạy Chúa Giêsu là vị Trung gian của Chúa Cha,
xin dạy chúng con làm trung gian
theo cách của Chúa,
nối kết những khác biệt, xóa bỏ những loại trừ,
hàn gắn những vết thương, và coi kẻ thù như bạn,
nhờ đó nhân loại hôm nay được hòa giải với nhau
và với Thiên Chúa. Amen.

 

BÀI 2: CHÚNG THEO TÔI

Suy Niệm

“Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa,
các thiên thần của bình an và hoan lạc,
xin hãy ném cho nhau những bông hồng, bông súng,
những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương;
và xin hãy đổ tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc
trên những nữ tì của Chúa.”

Ðó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp,
thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời.
Ông đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất
để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh
đã chăm sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu
đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.

Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó
chút hương thơm của Tuyệt Ðối, chút ngọt ngào của Vô Cùng,
để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc,
Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa:
cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên,
cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng,
cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm
cần bàn tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương,
và trên hết cần những trái tim không san sẻ,
dám yêu hết mình, dám sống hết tình,
hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người,
đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.

Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu,
chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn
và hãy giúp các bạn trẻ nghe được tiếng gọi ấy.

Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu,
nhưng cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.
Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ,
và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu,
một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường,
bước theo sát Ngài hết sức có thể,
một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh.
Họ vui lòng bỏ lại những gì họ quý yêu.
Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát.
Nhờ sống nghèo mà họ được giải thoát khỏi cái tôi ích kỷ.
Nhờ vâng phục, họ thắng được cái tôi muốn bành trướng.
Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng.
Như thế ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi,
bởi lẽ họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.
Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!

 

Gợi Ý Chia Sẻ

1) Hiện nay có ít bạn trẻ sống ở thành phố muốn dâng mình cho Chúa để sống ơn gọi linh mục hay tu sĩ. Theo ý bạn, cuộc sống xô bồ của thành phố thời nay có ảnh hưởng gì trên việc chọn lựa này?

2) Theo ý bạn, làm sao nhận ra Chúa kêu gọi mình sống đời thánh hiến? Có ai giúp bạn về chuyện này không?

 

Cầu Nguyện

Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.

Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Nguồn:hdgmvietnam.com
https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/05/timthumb3051356.webp 152 202 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-05-11 07:37:082025-05-11 07:37:08Tôi ban sự sống đời đời cho chiên của tôi (11/5/2025 – Chúa nhật 4 Phục sinh năm C)

Chúa đó (04/5/2025 – Chúa nhật 3 Phục sinh năm C)

3 Tháng 5, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”.

Bài Ðọc I: Cv 5, 27b-32. 40b-41

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?” Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!” Họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

Bài Ðọc II: Kh 5, 11-14

Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”. Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: “Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Bốn sinh vật thưa: “Amen”, và hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia:

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.

Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: “Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ông là ai?”, vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.] Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: HÃY CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY

Suy Niệm

Từ chương 13 trong Tin Mừng thứ Tư, bỗng nhiên xuất hiện
một nhân vật bí ẩn mang tên “người Môn đệ Chúa yêu.”
Có vẻ người môn đệ này trội hơn Simôn Phêrô nhiều mặt.
Trong bữa tiệc ly, anh này nằm gần Chúa hơn Simôn.
Anh nằm bên lòng Chúa, sát bên ngực Chúa (Ga 13,23-25).
Simôn nằm xa hơn, nên phải làm hiệu, nhờ anh hỏi dùm
xem Thầy muốn nói ai là kẻ sẽ nộp Thầy.
Trong khi Simôn chối Thầy ba lần trong dinh vị thượng tế,
dù trước đó ông đã chém đứt tai tên đầy tớ của vị này,
thì người Môn đệ Chúa yêu lại là người đứng bên thập giá,
đứng bên cạnh thân mẫu của Thầy (Ga 19,26-27).
Chính anh được làm con của Bà và đưa Bà về nhà mình.
Buổi sáng Phục sinh, Simon Phêrô và anh cùng chạy ra mộ,
nhưng người Môn đệ Chúa yêu chạy nhanh hơn,
và có vẻ anh cũng tin nhanh hơn Phêrô (Ga 20,4.8).

Khi Chúa phục sinh tỏ mình cho bảy môn đệ ở biển hồ Tibêria,
ta thấy có sự hiện diện của anh Môn đệ Chúa Giêsu yêu.
Sau khi mẻ cá lạ xảy ra, một lần nữa,
anh lại tỏ ra là người nhạy bén hơn Phêrô,
khi nhận ra người đàn ông đứng trên bãi biển là ai.
Anh nói nhỏ với Phêrô: “Chúa đó!” (Ga 21,7).
Người Môn đệ Chúa yêu thật là một khuôn mẫu lý tưởng
về sự gần gũi, thân thiết với Thầy.
Anh có mặt trong những lúc quan trọng của đời Thầy.
Anh đồng hành với Phêrô gần như hình với bóng.
Chúa ban cho anh nhiều ơn đặc biệt,
anh đã khiêm tốn đón nhận và dùng để giúp anh em.
Không hề có sự tranh dành quyền lực giữa anh với Phêrô.
Anh rất tôn trọng vị thế của Phêrô trong nhóm.

Phêrô có thể không nhạy bén bằng người Môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông được chọn đứng đầu nhóm môn đệ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Phêrô đưa ra một đề nghị,
cũng là một lời mời kín đáo: “Tôi đi đánh cá đây!”
Lời mời này được cả nhóm tán thành: “Chúng tôi cùng đi với anh.”
Thế là bảy môn đệ xuống thuyền đi đánh cá.
Chuyến ra khơi này tượng trưng cho Giáo hội hiệp hành,
một Giáo hội có người lãnh đạo, có sự đồng tâm nhất trí,
một Giáo hội cùng đi với nhau, cùng làm việc với nhau,
cùng chia sẻ một thất bại hay một thành công.
Có khi cả đêm không được con cá nào.
Có khi gặp mẻ cá đầy những cá lớn mà lưới không rách.
Lúc vui, lúc buồn, lúc nào họ cũng “ở với nhau” (Ga 21,2).

Phêrô có thể không nhạy bén bằng người Môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông là người đầu tiên lên bờ để gặp Chúa.
Ông bơi nhanh hơn con thuyền đang kéo lê lưới đầy cá,
vì ông muốn gặp Chúa càng sớm càng tốt.
Ông là người xuống thuyền để kéo lưới cá vào bờ (Ga 21,11).
Sau bữa ăn sáng, Chúa đã muốn nói chuyện riêng với Phêrô.
Bên đống lửa, Chúa cho thấy Ngài đã tha thứ cho ông,
và cho ông có cơ hội bày tỏ tình yêu, xóa đi các vấp ngã.
Những điệp khúc được nhắc đi nhắc lại:
“Con có yêu Thầy không?” “Thầy biết con mến Thầy.”
Tất cả dẫn đến việc trao cho Phêrô sứ mạng chăn dắt chiên.
Đây là đàn chiên của Thầy, đàn chiên Thầy yêu quý.
Theo truyền thống, người Môn đệ Chúa yêu không chịu tử đạo.
Còn đối với Phêrô, Chúa đã tiên báo cái chết của ông.
Khi về già, ông không được đi đâu tùy ý,
và sẽ bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (Ga 21,18-19).

Giáo hội luôn cần có Phêrô và người Môn đệ Chúa yêu.
Hai khuôn mặt có vẻ tương phản, nhưng lại bổ sung cho nhau.
Cả hai phải đi với nhau, dựa vào nhau, lắng nghe nhau.
Giáo hội hôm nay đa dạng về suy nghĩ, cách nhìn, hướng đi.
Ước gì chúng ta vẫn hiệp hành, vẫn chờ nhau,
không buông tay nhau trong lúc khó khăn nhất.

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
Con tự hào mình biết phân định,
xin cho con biết để ý đến sự phân định của người khác.


Con sống có nguyên tắc hẳn hoi,
xin cho con biết người khác cũng có nguyên tắc của họ.


Con có tri thức và kinh nghiệm,
xin cho con đừng khép lại và tự mãn,
vì tri thức thì vô tận,
và kinh nghiệm thì bao giờ cũng mới.


Con có bản lãnh và lập trường vững chắc,
xin cho con biết mở ra
để đón lấy những gì làm lập trường đó bị lung lay,
và vui sướng khi thấy mình đã đổi lập trường.


Lạy Chúa,
Xin cho con mềm mại hơn, nhẹ nhàng hơn, hiền lành hơn,
biết nhận ra và nâng niu những cố gắng nhỏ bé của anh em,
nhờ biết đặt mình trong hoàn cảnh của người khác.


Xin cho con tìm kiếm chân lý với trọn cả tâm hồn,
để chân lý làm con được tự do.

 

BÀI 2: CHÚA ĐÓ

Suy Niệm

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,
trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi đi đánh cá đây.”
Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng tôi cùng đi với anh.”
Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.

Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ Ðức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào bờ, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.

Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.

Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín,
nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.

 

Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,
được sai đi bởi Chúa và được quy tụ lại bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những Thánh lễ.
Chúng ta thường quên mỗi Thánh lễ là một bữa ăn.
qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi Thánh lễ.
Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.

Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.
Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy,
nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo.
Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu:
“Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”
Ba lần tuyên xưng tình yêu đi đôi với ba lần giao sứ mạng:
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh,
cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên.
Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến.
Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.

 

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một “mẻ cá lớn” không?

2. Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Ðó có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và được lãnh đạo bằng tình yêu không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chản nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không đươc gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/05/chua-do-chua-nhat-tuan-3-phuc-sinh-nam-c.webp 720 960 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-05-03 14:18:592025-05-03 14:18:59Chúa đó (04/5/2025 – Chúa nhật 3 Phục sinh năm C)

Không ở với các ông khác (27/4/2025 – Chúa nhật 2 Phục sinh năm C)

25 Tháng 4, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến.

Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16

“Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng”.

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.

Xướng: 1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.

2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.

3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi.

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.

 

Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19

“Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời”.

Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: “Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á”. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: “Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.

Phúc Âm: Ga 20,19-31

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: KHÔNG Ở VỚI CÁC ÔNG KHÁC

Suy Niệm

Chúng ta không rõ lý do khiến ông Tôma vắng mặt
khi Chúa Giêsu phục sinh đến với Nhóm Mười Hai.
Nhóm nay chỉ còn mười một người, vì mất anh Giuđa.
Cả nhóm sống trong tình trạng sợ hãi,
bởi đó họ đóng chặt các cửa (Ga 20,19.26).
Hầu chắc họ không dám ra đường.
Nếu vậy thì vào chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Tôma ở đâu khi Chúa Giêsu đến gặp các ông?
Chúng ta không dám đoán là giữa Tôma và anh em
đã có chuyện gì không ổn hay xích mích.
Nhưng có một điều chúng ta biết chắc,
đó là khi mười ông nói: “Chúng tôi đã thấy Chúa,”
Tôma tỏ ra dửng dưng, không hề bị thuyết phục.
Ông khẳng định chắc nịch như một tuyên ngôn:
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở hai bàn tay Người,
và đặt ngón tay mình vào dấu đinh,
và đặt bàn tay mình vào cạnh sườn Người,
tôi sẽ không tin” (Ga 20,25).
Ông đòi thấy và sờ chạm như các môn đệ khác.
Ông muốn có một kinh nghiệm riêng của mình.
Có vẻ ông không tin vào lời chứng của các bạn.
Thái độ của ông làm mọi người không vui.
Bỗng nhiên có một khoảng cách giữa ông và cả nhóm:
mười người đã thấy Chúa, còn một người chưa.
Làm sao có sự hiệp nhất, hiệp hành giữa họ?
Ai sẽ lấp đi khoảng cách này?

Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần,
Chúa Giêsu trở lại căn phòng, các cửa vẫn đóng kín.
Lần này có mặt ông Tôma với các bạn của ông.
Có vẻ Ngài trở lại đây chỉ vì ông,
như thể Ngài nghe thấy những điều ông đòi hỏi.
Đấng phục sinh nhắc lại rành mạch những đòi hỏi đó
và mời ông thực hiện từng điều ông mong mỏi:
“Hãy đặt ngón tay vào đây và xem hai bàn tay Thầy,
hãy đưa bàn tay ra và đặt nó vào vào cạnh sườn Thầy.”
Ta có cảm tưởng Chúa phục sinh đứng rất gần Tôma,
cầm lấy bàn tay ông và để ông chạm vào các vết thương.
Mục đích của cuộc gặp gỡ là đưa ông đi từ vô tín đến tin.
Ngài mong Tôma có cùng đức tin với anh em khác,
để cùng làm chứng như anh em, “Chúng tôi đã thấy Chúa!”
Chỉ khi cùng đức tin, cả nhóm mới có thể đi với nhau.

Chúa Giêsu khiêm tốn đến gặp Tôma,
để xây dựng sự tình anh em hiệp nhất.
Ngài không bỏ rơi ông, không để mất môn đệ nào.
Ngài quý từng người, chấp nhận tính khí của Tôma:
thực tế, thẳng thắn, cứng lòng tin (Ga 11,16; 14,5; 20,25).
Chúa chẳng ngại chiều Tôma để chinh phục ông.
Ngài biết sự cứng lòng của ông lại là một bằng chứng
để thế hệ tương lai vững tin vào phục sinh.
Không chắc Tôma dám đặt tay vào cạnh sườn Thầy,
nhưng ông đã thấy các vết thương và đã tin.
Ông đã tuyên xưng một đức tin lớn hơn điều ông thấy:
“Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.”

Đồng hành hay hiệp hành là điều không dễ.
Ngay giữa những môn đệ của Thầy Giêsu cũng vậy.
Nếu Chúa phục sinh không khiêm hạ đến với Tôma,
chắc Tôma và các ông khác sẽ khó chấp nhận nhau.
Giáo hội lúc nào cũng có những Tôma đầy cá tính,
thường đi nhanh hơn hay chậm hơn cộng đoàn.
Làm sao đừng để mất những Tôma như thế
trên bước đường hiệp hành của Giáo hội.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin cho chúng con học được cách cư xử của Chúa.

 

Khi được Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất,
Chúa vẫn cư xử tế nhị như một người phục vụ.
Chúa nướng bánh và cá cho các môn đệ ăn.

 

Khi được Cha cho sống lại vinh quang,
Chúa vẫn là người đi bước trước đến với các môn đệ.
Chúa hẹn họ đến Galilê, để nối lại tình Thầy trò,
để chữa lành những vết thương do vấp ngã.

 

Khi được Cha nâng dậy từ cõi chết,
Chúa không quên tấm lòng của các phụ nữ,
những người đã theo Chúa từ lâu,
đã có mặt khi Chúa chịu đóng đinh và chôn táng.
Bởi đó, những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ
là những người đầu tiên được gặp Chúa,
và được Chúa trao sứ mạng loan báo Tin Vui.

 

Chúng con học nơi Chúa sự nhẫn nại,
khi thấy Chúa chịu đựng sự cứng lòng của ông Tôma,
học nơi Chúa nghệ thuật đồng hành
khi thấy Chúa chuyện trò với hai môn đệ bỏ đi vì thất vọng.

 

Chúa phục sinh cao cả nhưng đã tự hạ mình
để chinh phục lại nhóm môn đệ, không để mất một ai.
Chúa có nhiều cách để làm cho người ta nhận ra Chúa,
qua việc gọi tên, hay làm cử chỉ bẻ bánh,
qua mẻ cá lạ, hay qua việc cho họ xem những vết thương.
Chúa đến qua hình dáng anh làm vườn hay người khách lạ.

 

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin dạy chúng con đem đến cho con người hôm nay
an bình và hy vọng, niềm tin yêu và Thánh Thần.
Xin cho khuôn mặt chúng con luôn tươi vui để làm chứng,
luôn bừng sáng để tỏa lan sức sống của Chúa. Amen.

BÀI 2: HÃY NHÌN XEM

Suy Niệm

Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã.
Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
Thầy chính là Ðấng đã bị đóng đinh và đâm thâu.
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.

Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương tưởng  chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.

Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới,
để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”,
và phúc cho những ai biết thấy nên tin.

Gợi ý chia sẻ

1. Ðọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?

2. Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma!  Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người – cũng như con – đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con sẽ về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

BÀI 3: CHÚNG TÔI ĐÃ THẤY CHÚA

Suy Niệm

Sau khi được phục sinh, Ðức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa,
nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp,
khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26),
thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Ðức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương.
Thân xác chiến thắng của Ngài
sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa,
vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng:
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”

Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma.
Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5).
Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Ðức Giêsu phục sinh.
Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến.
Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách.
Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn,
khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn:
“Chúng tôi đã thấy Chúa.”
Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan.
“Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay…
nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.”
Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Ðức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai.
Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến.
Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em,
nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi.
Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.

Ðức tin của chúng ta hôm nay
dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin,
đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma.
Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình,
như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau…
Nếu “thấy và chạm” nghĩa là “có cảm nghiệm”,
thì đòi hỏi trên thật là chính đáng.
Ðức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác
thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa,
cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao,
cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác
như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.

Truyền giáo là làm cho người ta tin,
làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa.
Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng:
“Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18).
Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng:
“Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác…
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/04/tai-xuong.jpg 168 300 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-04-25 17:35:512025-04-29 17:39:31Không ở với các ông khác (27/4/2025 – Chúa nhật 2 Phục sinh năm C)

Thế là đã hoàn tất (18/4/2025 – Tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa, Thứ Sáu Tuần Thánh)

18 Tháng 4, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ

Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.

Bài Ðọc I: Is 52, 13-53, 12

“Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta”.
(Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe.

Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.

Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta.

Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ.

Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 30, 5-6. 12-13. 15-16. 17 và 25

Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.

Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con.

Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.

2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.

Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.

3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người bách hại.

Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.

4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.

Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.

Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9

“Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”.

Trích thư gởi tín hữu Do Thái.

Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.

Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Phúc Âm: Ga 18, 1 – 19, 42

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:

“Các ngươi tìm ai?”

Chúng thưa lại:

“Giêsu Nadarét”.

Chúa Giêsu bảo:

“Ta đây”.

Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:

“Các ngươi tìm ai?”

Chúng thưa:

“Giêsu Nadarét”.

Chúa Giêsu đáp lại:

“Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi”.

Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:

“Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!”

Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do Thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do Thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:

“Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?”

Ông đáp:

“Tôi không phải đâu”.

Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:

“Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do Thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”.

Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:

“Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”.

Chúa Giêsu đáp:

“Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?”

Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:

“Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?”

Ông chối và nói:

“Tôi không phải đâu”.

Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:

“Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?”

Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.

Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:

“Các ngươi tố cáo người này về điều gì”.

Họ đáp:

“Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan”.

Philatô bảo họ:

“Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông”.

Nhưng người Do Thái đáp lại:

“Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”.

Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:

“Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”

Chúa Giêsu đáp:

“Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?”

Philatô đáp:

“Ta đâu phải là người Do Thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?”

Chúa Giêsu đáp:

“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”.

Philatô hỏi lại:

“Vậy ông là Vua ư?”

Chúa Giêsu đáp:

“Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”.

Philatô bảo Người:

“Chân lý là cái gì?”

Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do Thái và bảo họ:

“Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do Thái cho các ngươi chăng?”

Họ liền la lên:

“Không phải tên đó, nhưng là Baraba”.

Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:

“Tâu Vua Do Thái!”

Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:

“Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án”.

Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:

“Này là Người”.

Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:

“Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!”

Philatô bảo họ:

“Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông”.

Người Do Thái đáp lại:

“Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”.

Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:

“Ông ở đâu đến?”

Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:

“Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?”

Chúa Giêsu đáp:

“Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn”.

Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do Thái la lên:

“Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa”.

Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do Thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:

“Ðây là vua các ngươi”.

Nhưng họ càng la to:

“Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!”

Philatô nói:

“Ta đóng đinh vua các ngươi ư?”

Các thượng tế đáp:

“Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”.

Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.

Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do Thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do Thái”. Nhiều người Do Thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do Thái’”.

Philatô đáp:

“Ðiều ta đã viết là đã viết”.

Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:

“Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy”.

Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”. Chính quân lính đã làm điều đó.

Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:

“Hỡi Bà, này là con Bà”.

Rồi Người lại nói với môn đệ:

“Này là Mẹ con”.

Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:

“Ta khát!”

Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:

“Mọi sự đã hoàn tất”.

Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do Thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua”.

Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do Thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do Thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do Thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.

Ðó là lời Chúa.

Suy niệm:

Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.

Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài : “Các anh tìm  ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18,4-9).
Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn,
vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18,11).

Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn,
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18,19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18,23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do-thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18,38; 19,4.6).
Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xê-da” mà ông đang nắm giữ (19,12).
Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18,18.29.33.38; 19,1.4.9.13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18,36-37),
một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên.
“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19,14)
và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do-thái” (19,19).

Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19,30).
Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15,13),
tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19,34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3,16).

Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ. 

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. 

Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. 

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. 

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực. 

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau. 

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Nguồn:hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/04/tai-xuong-32756955.webp 499 750 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-04-18 11:17:132025-04-18 11:17:13Thế là đã hoàn tất (18/4/2025 – Tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa, Thứ Sáu Tuần Thánh)

Phải rửa chân cho nhau (17/4/2025 – Lễ Tiệc Ly, Thứ Năm Tuần Thánh)

16 Tháng 4, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

 Bài Ðọc I: Xh 12, 1-8. 11-14

“Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua”.

Bài trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: “Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca:

Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô.

Xướng: 1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.

Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô.

2) Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con.

Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô.

3) Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.

Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô.

 Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26

“Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm:

Chúa phán: “Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”.

Phúc Âm: Ga 13, 1-15

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

Ðó là lời Chúa

Suy niệm:

Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.

Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.

Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến

cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu:

Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.

Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.

Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.

Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.

Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.

Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,

Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.

Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.

Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.

Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,

thì bây giờ Thầy làm cho trò.

Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.

Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.

Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.

Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.

Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,

Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.

Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,

hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.

Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.

Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.

“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).

“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).

Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể

sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,

cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).

Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau

như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy:

“Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,

và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.

Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.

Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.

Cầu nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,

khi Thầy rửa chân cho các môn đệ

chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.

Thầy dạy chúng con một bài học rất ấn tượng

khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,

khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.

Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.

Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,

thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.

Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.

Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.

Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.

Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.

Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.

Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,

chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.

Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,

để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.

Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,

để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/04/1124.webp 375 639 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-04-16 21:44:222025-04-16 21:44:22Phải rửa chân cho nhau (17/4/2025 – Lễ Tiệc Ly, Thứ Năm Tuần Thánh)

Chúc tụng Đức Vua (13/4/2025 – Chúa nhật lễ Lá năm C)

12 Tháng 4, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Ðức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.

Bài Phúc Âm trước lễ: Lc 19, 28-4

“Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi rằng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”.

Ðó là lời Chúa.

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca:

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm:

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Lc 22, 14 – 23, 56

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. +: Chúa Giêsu

C/ Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.

Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:

+. “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”.

C/ Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:

+. “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!”

C/ Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:

+. “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.

C/ Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:

+. “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!”

C/ Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:

+. “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!”

C/ Rồi Chúa nói:

+. “Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”.

C/ Ông thưa Người:

S/ “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”.

C/ Nhưng Người đáp:

+. “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy”.

C/ Và Người bảo các ông:

+. “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?”

C/ Các ông thưa:

S/ “Không thiếu gì cả”.

C/ Vậy Người nói:

+. “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: “Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác”. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”.

C/ Các ông thưa Người:

S/ “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”.

C/ Và Người bảo:

+. “Ðủ rồi”.

C/ Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:

+. “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”.

C/ Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:

+. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”.

C/ Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:

+. “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”.

C/ Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:

+. “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?”

C/ Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:

S/ “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?”

C/ Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:

+. “Thôi, đủ rồi”.

C/ Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:

+. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”.

C/ Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.

Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:

S/ “Cả ông này cũng theo hắn”.

C/ Nhưng ông chối và nói:

S/ “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”.

C/ Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:

S/ “Chính ông cũng là người trong bọn đó”.

C/ Nhưng Phêrô đáp:

S/ “Này anh, đâu có phải tôi”.

C/ Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:

S/ “Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”.

C/ Phêrô đáp:

S/ “Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?”

C/ Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.

Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:

S/ “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”.

C/ Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:

S/ “Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”.

C/ Người trả lời:

+. “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”.

C/ Mọi người đều hỏi lại:

S/ “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?”

C/ Người đáp:

+. “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”.

C/ Bấy giờ họ nói:

S/ “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”.

C/ Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.

Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:

* S/ “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”.

C/ Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:

S/ “Ta không thấy người này có tội gì”.

C/ Nhưng họ cố nài rằng:

S/ “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”.

C/ Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.

Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:

S/ “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.

C/ Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:

S/ “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”.

C/ Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:

S/ “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!”

C/ Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:

S/ “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”.

C/ Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.

Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:

+. “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?”

C/ Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:

+. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”.

C/ Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:

S/ “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”.

C/ Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:

S/ “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”.

C/ Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:

S/ “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.

C/ Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:

S/ “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?”

C/ Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:

S/ “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.

C/ Chúa Giêsu đáp:

+. “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

C/ Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

+. “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”.

C/ Nói đoạn, Người trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:

S/ “Ông này quả thật là người công chính”.

C/ Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.

Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.* Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

Đó là lời Chúa.

Suy niệm:

Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người,

Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu,

chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.

Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội

bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi,

bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.

Ðức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ.

Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.

Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Ðức Giêsu,

chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.

Ðức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế,

ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.

Ði đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay

giúp ta nhạy cảm hơn với thánh giá của tha nhân,

và nhận ra mình có trách nhiệm

trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.

Ðức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người.

Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng.

Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý.

Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha,

nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa,

ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.

Tôi thấy mình có nét của Giuđa,

một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần.

Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe.

Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.

Tôi thấy mình có nét giống Phêrô.

Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy

để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ.

Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh.

Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc.

Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi…

Tôi thấy mình có nét giống Philatô.

Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức.

Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào.

Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.

Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê,

tò mò, háo hức, trông chờ Ðức Giêsu làm phép lạ.

Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh.

Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.

Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.

Simon vác đỡ thập giá Ðức Giêsu, các bà theo sau than khóc.

Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành.

Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác.

Anh tin Ðức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh.

Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.

“Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”:

Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Ðức Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,

xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,

xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện

với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. 

Vì Chúa bị kết án bất công,

xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,

xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,

xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,

xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,

xin cho đất nối lại với trời,

con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,

xin cho chúng con biết đón lấy đời thường

với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/04/chuc-tung-duc-vua-chua-nhat-le-la.webp 457 662 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-04-12 08:55:112025-04-12 08:55:11Chúc tụng Đức Vua (13/4/2025 – Chúa nhật lễ Lá năm C)

Đừng phạm tội nữa (06/4/2025 – Chúa nhật 5 Mùa Chay năm C)

5 Tháng 4, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Bài Ðọc I: Is 43, 16-21

“Ðây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống”.

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Bài Ðọc II: Pl 3, 8-14

“Vì Ðức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết”.

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Ðức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại.

Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Ðức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b

Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”.

Phúc Âm: Ga 8, 1-11

“Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: CÚI XUỐNG, VIẾT TRÊN ĐẤT

Suy Niệm

Phải nhận là các kinh sư và những ông Pharisêu tài thật
khi họ có thể bắt quả tang một phụ nữ ngoại tình.
Tiếc thay họ chỉ bắt được người phụ nữ,
và không bắt được anh đàn ông đồng phạm!
Dường như họ nắm được thói quen này của Đức Giêsu:
ban đêm Ngài ngủ ở Núi Ô-liu, ban ngày giảng dạy ở Đền thờ.
Bởi đó khi Đức Giêsu giảng dạy cho đám đông lúc tảng sáng
thì họ hớn hở dẫn chị ta đến.
Ai cũng biết chị này xấu hổ nhục nhã biết chừng nào.
Áo quần xốc xếch, đầu tóc rối bù,
mặt cúi gằm xuống, để tránh bao cái nhìn soi mói.
Chị run sợ vì biết mình sắp bị xét xử (Lv 20,10),
số phận của chị mong manh như chỉ mành treo chuông.
Thật ra, chị không phải là đích nhắm của các ông lãnh đạo.
Chị chỉ là nhân vật phụ trong kịch bản của họ.
Đức Giêsu mới là người họ muốn thử khi đặt câu hỏi:
“Xin Thầy cho biết ý kiến, có nên ném đá chị này
như Luật Môsê đã dạy không?”
Trả lời nên hay không nên đều đưa mình vào thế khó.
Thầy Giêsu nhân từ sẽ chẳng bao giờ bảo ném đá,
mà bảo không ném thì lại mang tiếng là chống Lề Luật.

Các kinh sư và người Pharisêu thích thú với cái bẫy của họ.
Họ nghĩ Đức Giêsu sẽ không sao thoát được.
Khi Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất,
họ tưởng Ngài đang tránh né, không dám trả lời.
Đức Giêsu cứ viết nguệch ngoạc, còn họ cứ gặng hỏi mãi.
Cuối cùng, Ngài ngẩng lên và nói: “Ai trong các ông vô tội,
hãy là người đầu tiên ném viên đá đi!”
Rồi Ngài lại cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất.
Bầu khí chợt lắng xuống, như nghe được tiếng thở.
Lời của Đức Giêsu vang vọng trong lòng người,
và đưa người ta đến chỗ hồi tâm.
Có ai thấy mình hoàn toàn vô tội không?
Có ai chưa bao giờ ngoại tình trong lòng không?
Vậy có ai can đảm ném viên đá đầu tiên không?
Lời Đức Giêsu tạo ra một khoảng lặng mới mẻ.
Bây giờ chỉ còn nghe thấy tiếng chân người rời đi.
Từng người một, người cao niên đi trước.
Những người muốn tố cáo người khác đã tự xét mình.
Cả đám đông bây giờ chỉ còn lại hai người:
người đáng thương và Đấng thương xót.
Tất cả đã sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ,
cuộc đối thoại đầu tiên giữa Ngài với người phụ nữ.

Đức Giêsu ngẩng lên, thấy chị ấy đứng trước mặt.
Ngài đơn sơ hỏi chị như thể là ngạc nhiên:
“Họ đâu cả rồi? Không ai kết án chị sao?”
Người phụ nữ lịch sự trả lời: “Thưa Ngài, không có ai?”
Câu trả lời chất chứa niềm vui và cả sự ngạc nhiên nữa.
Vâng, những người định ném đá bỏ đi cả rồi.
Đức Giêsu, Đấng vô tội, Đấng có quyền kết án lại nói:
“Tôi cũng không kết án chị đâu.”
Chẳng những Ngài cứu chị khỏi một hình phạt nặng nề,
Ngài còn mở ra một con đường mới cho đời chị.
Người ta lôi chị đến đây để gặp Ngài,
Bây giờ Ngài mời chị đi, chỉ dặn là đừng bao giờ tái phạm.

Khó có thể kết thúc câu chuyện này một cách đẹp hơn.
Tất cả bắt đầu với sự căng thẳng, thách thức, tự hào.
Rồi lắng xuống với những khoảng lặng, cả trong và ngoài.
Những người tố cáo dịu xuống, không bị tổn thương.
Chị phụ nữ bị tố cáo được nhẹ nhàng tha thứ.
Đức Giêsu thoát khỏi cái bẫy của các ông lãnh đạo.
Đọc bài Tin Mừng này trong Mùa Chay,
ta thấy mình là chị phụ nữ, vì nhiều lần bất trung với Chúa.
Ta thấy mình là ông kinh sư, soi rất kỹ tội của tha nhân,
nhưng ít dành thời gian hồi tâm để xét chính mình.
Ta được mời gọi để giống Chúa Giêsu, thanh thản, khéo léo,
biết cách tạo bầu khí an hòa, gạt bỏ mọi đối đầu, xung đột.

Ta cần học nơi Đức Giêsu khả năng cúi xuống,
làm như không thấy ai,
khả năng viết trên đất để làm giảm căng thẳng,
và khả năng ngẩng lên để đối thoại nghiêm túc.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
Bình an là điều rất quý mà con người luôn kiếm tìm.
Có người tìm bằng cách buông bỏ, coi mọi sự như không.
Có người tập hít thở, tập yoga hay ngồi thiền…


Kitô hữu chúng con biết mình phải tìm bình an ở đâu.
Chúng con phải tìm bình an nơi Chúa,
là nguồn mạch bình an cho nhân loại.
Chúng con không thể tự làm cho lòng mình bình an,
vì bình an là quà tặng vô giá của Chúa.


Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã nói: “Thầy để lại bình an cho anh em.
Thầy ban bình an của Thầy cho anh em.”
Bình an của Chúa khác với bình an do thế gian ban tặng,
bởi lẽ nó không dựa trên sự an toàn do vật chất,
do tập luyện của ý chí, hay do lý luận suy tư.


Xin cho chúng con giữ được sự bình an tận đáy lòng
của người biết mình đang sống và làm theo ý Chúa.

BÀI 2: ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA

Suy Niệm

Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ.
Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình
thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù,
bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Ðền Thờ Giêrusalem,
Ðức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông.
Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa.
Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có
để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.

“Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Quả là một câu hỏi bất ngờ và nham hiểm.
Ðức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê,
và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình.
Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất.
Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào
hay Ngài đang suy nghĩ để tìm câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột.
Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.

Bấy giờ Ngài mới ngẩng lên và bảo:
“Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá chị trước đi.”
Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất.
Câu nói của Ngài vang lên trong tĩnh lặng,
bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình.
Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình.
Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình.
Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội.
Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước.
Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ.
Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo.
Đó là chị phụ nữ và Đức Giêsu,
người đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Ðấng duy nhất có thể ném đá lại nói:
“Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi,
từ nay đừng phạm tội nữa.”

Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu,
nhưng lại không ích lợi thực sự cho người phạm tội.
Ðức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người,
Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã,
Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng khơi dậy cái tốt
còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ
và cả nơi các kinh sư.

Gợi ý chia sẻ

1) Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sau này sẽ đổi đời không?

2) Ðể sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.


Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.


Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.


Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/04/ga-81-1.webp 267 364 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-04-05 08:06:252025-04-05 08:06:25Đừng phạm tội nữa (06/4/2025 – Chúa nhật 5 Mùa Chay năm C)

Trở về (30/3/2025 – Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C)

30 Tháng 3, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha”.

Bài Ðọc I: Gs 5, 9a. 10-12

“Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng Lễ Vượt Qua”.

Bài trích sách Giosuê.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai-cập khỏi các ngươi!” Con cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô. Ngày hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

 Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.

 Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 17-21

“Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình”.

Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới. Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18

Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.

Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32

“Em con đã chết nay sống lại”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu… Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: MỞ TIỆC ĂN MỪNG

Suy Niệm

Tâm sự của Con Thứ

Người ta hay bảo là tôi bất hiếu.
Cha còn sống mà đòi chia gia tài, rồi bỏ nhà ra đi.
Thật ra sống với cha và người anh mãi rồi cũng chán.
Tôi muốn thay đổi môi trường bị bó hẹp.
Có những vùng xa vẫy gọi, đến đó chắc vui hơn.
Cha tôi là người thương con và tôn trọng tự do của con,
nên ông chẳng phản đối gì, ông nghĩ là tôi đã đủ khôn lớn.
Thế là tôi lên đường, tự tin và kiêu hãnh.
Tôi đã tận hưởng những khoái lạc chỉ có trong mơ,
và chẳng mấy chốc, khối gia tài lớn đã tiêu tán.
Khi tôi tay trắng thì nạn đói ập đến vùng ấy.
Tôi phải đi chăn heo cho một người dân trong vùng,
nhưng vẫn không tránh được cái đói hành hạ.
Tôi bị vỡ mộng vì cái vùng xa mà tôi tưởng là thiên đàng
lại là cái vùng chết đói, vùng đưa tôi đến chỗ ở đợ.
Khi rơi vào sự cùng quẫn và bị đe dọa bởi cái chết,
tôi liền nghĩ đến chuyện trở về với cha.
Tôi chợt hiểu tất cả là do tôi, do tội của tôi.
Nếu trở về, tôi sẽ phải chấp nhận bao liều lĩnh.
Cha tôi và người anh cả có đón nhận tôi không?
Gia nhân và hàng xóm láng giềng sẽ nghĩ sao về tôi?
Tôi không muốn trở về trong nhục nhã, xấu hổ,
nhưng dù sao tôi cũng phải về, không chỉ vì sắp chết đói,
nhưng để nói một lời xin lỗi cha tôi.

Tâm sự của Con Cả

Từ ngoài đồng về, được gia nhân báo cho biết
cả nhà đang ăn mừng vì anh con thứ trở về,
tôi nổi giận như phát điên lên.
Tôi không thể vào nhà để dự tiệc được.
Mở đại tiệc với bê béo, có khách mời, có ca vũ nhạc,
để mừng đứa con hư hỏng trở về,
tôi không hiểu sao cha tôi lại làm chuyện như vậy.
Khi cha tôi đi ra, năn nỉ tôi vào,
tôi đã nói thẳng với cha về sự bất công tôi phải chịu.
Bao năm phụng dưỡng cha, chẳng được một con dê nhỏ,
còn đứa con phung phá trở về, cha lại giết bê béo ăn mừng.
Nhiều người cho rằng tôi vào nhà dự tiệc là chuyện dễ.
Họ đâu biết rằng làm sao dự tiệc khi lòng không vui,
làm sao ngồi cạnh đứa em mà tôi không muốn nhìn mặt.
Tôi thấy rõ cha tôi vui như chưa bao giờ vui đến thế.
Nhưng tôi xin lỗi, tôi không thể vui với cha tôi được.
Tôi vẫn cứ đứng ngoài, lạnh lùng, dửng dưng.

Tâm sự của Người Cha

Có người bảo tôi là người cha nhu nhược,
vì tôi đã chạy ra để đón đứa con thứ,
đã đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Họ không hiểu được tấm lòng của người cha,
chẳng muốn mất đứa con nào, vì cả hai đều quý.
Tôi không đi tìm đứa con thứ, vì biết nó sẽ trở về.
Tôi đã ngóng trông và thấy nó trước khi nó thấy tôi.
Khi ôm chầm lấy nó mà hôn, tôi không thấy mùi hôi.
Tôi chỉ thấy mùi quen thuộc của con tôi,
đứa con đã mất nay tìm thấy, đã chết nay sống lại.
Tiếc là đứa con cả không hiểu tôi.
Phải nhận nó là đứa con tử tế, lúc nào cũng ở với cha,
nhưng nó cứ tưởng cha chỉ yêu đứa nào tử tế thôi.
Nó không biết là tôi yêu cả đứa con hư hỏng,
thậm chí yêu nhiều hơn, khi đứa em ăn năn trở về.
Con cả phàn nàn và ganh tỵ vì nghĩ tôi không công bằng,
nên tôi phải nhắc: tất cả cơ nghiệp này là của nó.
Bữa tiệc này sẽ chẳng trọn vẹn nếu nó vẫn không vào.
Tôi muốn hai đứa con tôi ngồi bên nhau.
Tôi muốn đứa con cả nói với em của nó:
“Em cứ ở nhà, đừng đi nữa, cha và anh sẽ lo cho em!”

Cầu Nguyện

Lạy Thầy Giêsu,
thật là khó khi phải giữ thái độ khoan dung
đối với những ai đang gây ra bất công và đau khổ
cho bao người trên thế giới và trong Giáo Hội.
Chúng con muốn bứng gốc sự dữ ra khỏi địa cầu,
và làm cho Giáo Hội chỉ gồm những người thánh thiện.

Nhưng lạy Thầy Giêsu,
Thầy lại muốn chúng con để cỏ lùng sống chung với lúa,
và để cả hai cùng lớn lên cho đến mùa gặt.
Chúng con hiểu tại sao ác nhân vẫn tung hoành,
và Xatan dường như thắng thế trong cuộc chiến hiện tại.
Thầy cho chúng con thấy khuôn mặt của Chúa Cha,
Đấng kiên nhẫn chờ con người hối cải,
Đấng cho mặt trời sáng trên kẻ dữ,
và mưa rơi trên ác nhân.
Thầy cũng cho chúng con thấy khuôn mặt của Thầy,
Đấng không bẻ gãy cây lau bị giập,
không làm tắt tim đèn còn khói.

Xin Thầy dạy chúng con biết cách chấp nhận
cuộc xung đột kéo dài đến tận thế
giữa con cái ánh sáng và con cái tối tăm,
giữa lúa tốt và cỏ lùng.
Và xin cho chúng con tin rằng
chiến thắng cuối cùng
sẽ thuộc về ánh sáng và sự thiện,
công lý và tình yêu.

 

BÀI 2: TRỞ VỀ

Suy Niệm

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.
Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi,
và người cha tôn trọng quyết định đó.
Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.
Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.
Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha.
Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.
Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.
Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy:
tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng
đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út.
Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.
Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.
Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.
Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.
Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.
Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.
Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế,
bao dung đến độ bất công với anh.
Ðãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng,
còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có.
Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em.
Anh tức giận vì thấy mình bị cha đối xử bất công.
Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hóa ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.
Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.
Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi.
Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.
Sám hối là trở về với tình cha.
Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.
Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.
Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.
Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà.
Người em cần khiêm tốn mới dám trở về gặp cha
trong tình trạng thân tàn ma dại.
Ðể trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.
Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.
Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất,
mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha.
Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung.
Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc.
Cha yêu mình chỉ vì mình là con.
Cha không muốn mất một đứa con nào.
Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em.
Ðó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.
Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình.
Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.
Gợi ý chia sẻ

1. Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về? Bạn thường ăn năn trở về vì lý do nào?

2. Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay của Cha.
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn: hdgmvietnam.com

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/03/6937286448_61447500ff.webp 169 253 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-03-30 09:28:412025-03-30 09:29:08Trở về (30/3/2025 – Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C)

Hại đất (23/3/2025 – Chúa nhật 3 Mùa Chay năm C)

22 Tháng 3, 2025/0 Comments/in Lời Chúa mỗi ngày, Sống lời Chúa/by Hoàng Từ
“Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”

Bài Ðọc I: Xh 3, 1-8a. 13-15

“Ðấng hiện hữu sai tôi đến với anh em”.

Bài trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môsê nói: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi”.

Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: “Môsê! Môsê!” Ông thưa: “Dạ con đây!” Chúa nói: “Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh”. Chúa lại nói: “Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp”. Môsê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”.

Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: “Này con sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: “Tên Người là gì?”, con sẽ nói sao với họ?” Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Ðấng Tự Hữu”. Chúa nói: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: “Ðấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em”.

Thiên Chúa lại nói với Môsê: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: “Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em”. Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót.

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót.

2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót.

3) Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót.

4) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót.

 Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12

“Ðời sống dân chúng đối với Môsê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.

Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.

Ðó là lời Chúa.

 Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Này là lúc thuận tiện, này là ngày cứu độ.

 Phúc Âm: Lc 13, 1-9

“Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.

Ngài nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: “Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!” Nhưng anh ta đáp rằng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”.

Ðó là lời Chúa.

BÀI 1: TÔI SẼ VUN XỚI

Suy Niệm

Giáo Hội cho đọc Bài Tin Mừng này trong Mùa Chay
vì qua bài đọc này, Đức Giêsu khẩn thiết mời ta hối cải.
Ai cũng biết hối cải, hoán cải hay sám hối là quan trọng.
Nhưng chúng ta vẫn thường nghĩ
hối cải không phải là chuyện của mình
nhưng là chuyện của người khác, của những kẻ tội lỗi.
Khi Đức Giêsu đang giảng về hối cải (Lc 12,57-59),
có mấy người đến kể cho Ngài nghe một chuyện kinh khủng.
Đó là chuyện quan Philatô giết một số người vùng Galilê,
lấy máu của họ hòa với máu của các con vật họ đang dâng.
Mà chuyện ấy lại xảy ra ngay trong khuôn viên Đền thờ.
Không rõ mấy người kể chuyện có mục đích gì.
Họ có muốn Đức Giêsu lên tiếng chống lại Philatô không?
Họ có coi những ai bị giết là tội nhân, bị Chúa phạt không?
Đức Giêsu không muốn giải thích tại sao có tai họa đó.
Ngài chỉ mạnh mẽ loại bỏ lối suy nghĩ cho rằng
những người Galilê đã chết bi thảm là những kẻ phạm tội
nặng hơn những người Galilê còn đang sống (Lc 13,2).
Hơn nữa, Ngài muốn qua biến cố đau thương này
đưa người ta ra khỏi sự tự mãn và bình an giả tạo,
để thay vì xét đoán các nạn nhân, thì quay vào lòng mình.
Mọi thảm kịch xảy ra đều là lời mời gọi tôi hoán cải.

Đức Giêsu còn kể thêm một chuyện buồn khác.
Chuyện tháp Si-lô-ác đè chết mười tám người ở Giêrusalem.
Những tai nạn chết chóc vẫn cứ xảy ra hàng ngày quanh ta.
Nếu ta còn được an toàn, thì không phải vì ta thánh hơn,
nhưng vì Chúa còn cho ta thời giờ để hối cải.
Dụ ngôn cây vả sau đây minh họa cho ta thấy điều đó.

Ông chủ đã trồng một cây vả trong vườn nho của mình.
Ông biết rõ chỗ đứng của cây vả trong vườn.
Nó cũng có chỗ đứng trong trái tim ông.
Ông phải chờ nhiều năm mới được phép ăn trái của nó:
chờ ba năm sau khi nó bói những trái đầu tiên,
chờ thêm một năm để dành của đầu mùa cho Chúa (Lv 19,23-25).
Tiếc thay, khi ông được phép ăn thì cây lại không có trái.
Năm nào, vào mùa vả, ông cũng đến, tìm trái mà không thấy.
Ông tiếp tục chờ, kiên nhẫn chờ đủ ba năm.
Chẳng ai dám bảo là ông nóng nảy hay độc ác
khi ông nói với người làm vườn: “Anh chặt nó đi!”
Chặt đi cây vả mà ông quan tâm và yêu mến
là một quyết định khó khăn, nhưng hợp lý.
Ông đã hy vọng, đã chờ và đã thất vọng nhiều lần.
Ông đành phải ra lệnh chặt đi khi thất vọng thành tuyệt vọng.
Chặt đi để dành đất màu cho các cây khác, vậy thôi.

Không ai có thể ngờ được một mệnh lệnh như thế
lại có thể bị can ngăn bởi người làm vườn.
Anh này lịch sự xin ông chủ đừng chặt ngay.
Anh xin cho cây vả được sống thêm một năm nữa.
Chẳng những thế anh còn hứa sẽ chăm chút cho cây.
“Tôi sẽ vun xới chung quanh và bón phân cho nó.”
Anh còn niềm hy vọng tuy nhỏ nhoi, nhưng chưa bao giờ tắt.
Anh hy vọng sang năm nó sẽ có trái.
Nếu không, chặt đi cũng chẳng muộn (Lc 13,8-9).
Dụ ngôn cây vả không ra trái đã kết thúc ở đó.
Không thấy ông chủ nói gì, chắc ông đồng ý với anh.
Cũng không rõ cây vả năm sau có ra trái không.

Có thể coi ông chủ của cây vả là hình ảnh của Thiên Chúa.
Một Thiên Chúa sáng tạo, quan tâm và hy vọng nơi con người.
Một Thiên Chúa chờ đợi và thất vọng vì con người.
Một Thiên Chúa có tình yêu bị từ chối, nên đành đoạn tuyệt.
Tuy nhiên, đây cũng là một Thiên Chúa mềm mại,
có thể đổi ý, chứ không cứng nhắc.
Có thể coi người làm vườn là hình ảnh của Đức Giêsu.
Một Đấng xin Cha trì hoãn để cây vả được sống thêm.
Một Đấng tận tâm tạo điều kiện tốt để cây vả sinh trái.

Chuyện cây vả thật ra cũng là chuyện của chúng ta.
Chúng ta là cây vả, có trách nhiệm sinh trái nhiều và ngon.
Cả ông chủ và người làm vườn đều chịu chờ một năm nữa…
“Nếu không, xin ông hãy chặt nó đi.”

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa
về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.
Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.
Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui
và những ngày tủi thân buồn bã.
Chúc tụng Chúa về cả những gì
Chúa đã không cho con được hưởng.


Lạy Chúa, xin đừng sa thải
người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.
Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,
xin đừng đuổi con xa Chúa.
Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.
Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,
để không bao giờ mỏi mệt về con,
và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.


Xin Chúa đến giúp con,
ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,
cho con biết cậy trông
cả những khi cùng đường tuyệt vọng,
cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,
một chiến thắng huy hoàng nơi con.

(Karl Rahner)

 

BÀI 2: HẠI ĐẤT 

Suy Niệm

Ðiều làm chúng ta khó sám hối
đó là cảm thấy mình ở trong tình trạng an toàn.
Ðức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi tính thời sự,
một do sự tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động.
Cả hai đều dẫn đến cái chết thảm khốc:
những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Ðền Thờ,
mười tám người chết vì bị tháp Silôa đè bẹp.
Vào thời Ðức Giêsu, họ bị coi là kẻ có tội, nên bị Chúa phạt.
Những người khác dễ nghĩ mình vô tội, vì còn được bình yên.
Ðiều này đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.
“Ðừng tưởng…”: Ðức Giêsu đưa ta ra khỏi ảo tưởng về mình.
Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội hơn ai.
Lúc còn được sống yên lành là lúc cần hoán cải.
Có thể đây là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.

Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn.
Nó không cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan.
Nó chỉ phạm một tội thôi: tội làm hại đất,
tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh trái.
Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây vả cằn cỗi.
Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai,
nhưng lại quên rằng mình đã phạm tội là không làm điều tốt,
những điều tốt có thể làm được và phải làm.
Có bao nén bạc Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18),
bao người túng thiếu mà ta không giúp đỡ (Mt 25,42).
Khi không làm điều tốt cho đời, cho người,
ta tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tác oai tác quái.

Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội,
mà còn là tích cực gieo rắc phát huy cái tốt.
Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng.
Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân biết bao!

Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa.
Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…”
Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”.
Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.
Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.
Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém:
“Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”.
Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:
“Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”.
Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng:
“Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”.
Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi:
đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Ðức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải,
vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.

Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị của Chúa,
là đừng để thui chột những ơn lành Ngài ban.

Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội,
mà còn thú cả sự cằn cỗi, ì ạch của mình.
Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn và ngọt hơn.

 

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Tội thiếu sót việc bổn phận, tội sống vô trách nhiệm, tội không làm điều lẽ ra phải làm: có khi nào bạn phạm những tội này không? Bạn có thấy xã hội xấu đi vì nhiều người thản nhiên phạm thứ tội này không?

2. Bạn nghĩ gì về cây vả của đời bạn? Tình trạng này hiện nay của nó ra sao? Làm sao để có thêm nhiều trái ngọt?

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.

Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.

Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.

Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.

Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Nguồn:hdgmvietnam.com

 

https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2025/03/v-cn3mc-lc13_1-9-3.webp 138 216 Hoàng Từ https://giaoxuhoailai.org/wp-content/uploads/2024/10/logo-small.png Hoàng Từ2025-03-22 07:49:072025-03-22 07:49:07Hại đất (23/3/2025 – Chúa nhật 3 Mùa Chay năm C)
Page 1 of 41234

Tin mới đăng

  • Ngày thứ Ba khóa huấn luyện Giáo lý viên Huynh trưởng “Phụng sự trong Hy vọng”7 Tháng 6, 2025 - 11:20 sáng
  • Lịch Công Giáo và Mục vụ Giáo xứ Hoài Lai từ 07/06/2025 đến 15/06/20257 Tháng 6, 2025 - 9:24 sáng
  • Ngày thứ Hai – Khóa Huấn luyện Giáo lý viên và Huynh dự trưởng xứ đoàn Tôma Thiện5 Tháng 6, 2025 - 5:13 chiều
  • Xứ đoàn Tôma Thiện khai mạc Khóa huấn luyện Giáo lý viên Huynh trưởng hè 20254 Tháng 6, 2025 - 12:34 chiều
  • Lịch Công Giáo và Mục vụ Giáo xứ Hoài Lai từ 31/05/2025 đến 08/06/202530 Tháng 5, 2025 - 10:00 chiều

Follow us on Facebook

Vừa cập nhật

  • Ngày thứ Ba khóa huấn luyện Giáo lý viên Huynh trưởng “Phụng sự trong Hy vọng”7 Tháng 6, 2025 - 11:20 sáng
  • Lịch Công Giáo và Mục vụ Giáo xứ Hoài Lai từ 07/06/2025 đến 15/06/20257 Tháng 6, 2025 - 9:24 sáng
  • Ngày thứ Hai – Khóa Huấn luyện Giáo lý viên và Huynh dự trưởng xứ đoàn Tôma Thiện5 Tháng 6, 2025 - 5:13 chiều
  • Xứ đoàn Tôma Thiện khai mạc Khóa huấn luyện Giáo lý viên Huynh trưởng hè 20254 Tháng 6, 2025 - 12:34 chiều
  • Lịch Công Giáo và Mục vụ Giáo xứ Hoài Lai từ 31/05/2025 đến 08/06/202530 Tháng 5, 2025 - 10:00 chiều

Tin Giáo hội

  • Đức Giáo hoàng Lêô XIV và vấn đề xã hội mới của trí tuệ nhân tạo
  • Đức Lêô XIV là Tân Giáo hoàng
  • Mật nghị bầu Giáo hoàng sẽ bắt đầu vào ngày 07/5/2025
  • Thánh lễ an táng Đức Thánh Cha Phanxicô
  • Danh sách các điểm hành hương Năm thánh 2025 tại Việt Nam

Lịch làm việc Văn phòng:

+ Thứ 3 – Thứ 7: 7g30 – 11g30; 14g30 – 18g30

+ Chúa nhật: 6g30 – 10g30; 16g30 – 20g30

+ Thứ hai nghỉ cả ngày

Facebook

Thông tin liên hệ

+ Địa chỉ: Nhà thờ Giáo xứ Hoài Lai – xóm 9A, Lai Thành, Kim Sơn, Ninh Bình.

+ Điện thoại: (+84) 916.612.880

Ban truyền thông Giáo xứ Hoài Lai - powered by Enfold WordPress Theme
  • Facebook
  • Youtube
  • Tin Tức
  • Giới thiệu
  • Liên hệ
Scroll to top